Vừa qua, một vụ việc liên quan giữa ca sĩ và nhạc sĩ đình đám trong Showbiz Việt về việc biểu diễn và sử dụng tác phẩm âm nhạc khi đã hết hạn Hợp đồng sử dụng quyền tác giả đã làm phát sinh nhiều tranh cãi giữa các bên.
D&P Legal dựa trên góc độ pháp lý để chia sẻ những nội dung chính có liên quan vấn đề trên, như sau:
1. Về đối tượng
8 “bản hit” được liệt kê trong vụ việc trên gồm: “Mãi mãi bên nhau”, “Gạt đi nước mắt”, “Hold me tonight”, “Đừng nhìn lại”, “Đến với nhau là sai”, “Cause I love you”, “Xin đừng buông tay” và “Như phút ban đầu”. Đây là các tác phẩm âm nhạc được bảo hộ quyền tác giả theo quy định tại điểm d Khoản 1 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, được sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019 và 2022 (sau đây viết tắt là “Luật SHTT”).
Theo Khoản 1 Điều 6 Luật SHTT, quyền tác giả trên phát sinh từ khi tác phẩm âm nhạc được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, bất kể có đăng ký hay không đăng ký.
Thời hạn bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc theo quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 27 Luật SHTT là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết.
2. Về chủ thể
2.1. Nhạc sĩ
Nhạc sĩ trong vụ việc này là tác giả và đồng thời cũng là chủ sở hữu quyền tác giả đối với 8 bài hát trên, do đó, được hưởng quyền tác giả, bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản quy định tại Điều 18, 19, 20 Luật SHTT, tóm tắt là:
– Đối với quyền nhân thân, nhạc sĩ được quyền: Đặt tên cho tác phẩm; Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc; không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
– Đối với quyền tài sản, nhạc sĩ được quyền: Làm tác phẩm phái sinh; Biểu diễn tác phẩm trước công chúng trực tiếp hoặc gián tiếp; Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp toàn bộ hoặc một phần tác phẩm; Phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng thông qua bán hoặc hình thức chuyển giao quyền sở hữu khác; Phát sóng, truyền đạt đến công chúng.
Trong trường hợp này, nhạc sĩ là tác giả đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả nên khi ca sĩ muốn sử dụng các ca khúc trên phải được sự cho phép của nhạc sĩ và trả tiền bản quyền, các quyền lợi vật chất khác (nếu có) cho nhạc sĩ, theo Khoản 2 Điều 20 Luật SHTT.
2.2. Ca sĩ
Ca sĩ (người biểu diễn) các ca khúc khi sử dụng các tác phẩm âm nhạc trên cũng có quyền nhân thân và quyền tài sản đối với ca khúc do mình biểu diễn, được quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều 29 Luật SHTT, tóm tắt là:
– Đối với quyền nhân thân, ca sĩ có quyền: Được giới thiệu tên khi biểu diễn, khi phát hành bản ghi âm, ghi hình, phát sóng cuộc biểu diễn; Bảo vệ sự toàn vẹn của hình tượng biểu diễn; không cho người khác sửa đổi, cắt xén hoặc xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của người biểu diễn.
– Đối với quyền tài sản, ca sĩ có các quyền: Định hình cuộc biểu diễn trực tiếp của mình trên bản ghi âm, ghi hình; Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp toàn bộ hoặc một phần cuộc biểu diễn của mình; Phát sóng, truyền đạt đến công chúng cuộc biểu diễn chưa được định hình của mình; Cho thuê thương mại tới công chúng bản gốc, bản sao cuộc biểu diễn của mình; Phát sóng, truyền đạt đến công chúng bản định hình cuộc biểu diễn của mình.
3. Về xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền trong Hợp đồng liên quan đến việc sử dụng, biểu diễn 8 bản hit trên:
Hợp đồng giữa ca sĩ và nhạc sĩ liên quan đến việc sử dụng tác phẩm âm nhạc để biểu diễn là “Hợp đồng sử dụng quyền tác giả”, quy định tại Điều 47, 48 Luật SHTT (sau đây gọi là “Hợp đồng”). Theo đó, nhạc sĩ trong câu chuyện trên là chủ sở hữu (và cũng đồng thời là tác giả) của các bài hát cho phép cá nhân (ca sĩ) sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền của nhạc sĩ trong một thời hạn nhất định do các bên thỏa thuận, thống nhất trong Hợp đồng.
Hợp đồng ở trường hợp này có các đặc điểm cơ bản như sau:
– Là Hợp đồng chuyển quyền sử dụng một số quyền nhân thân được chuyển giao và quyền tài sản;
– Bên được chuyển giao quyền (ca sĩ) không phải là chủ sở hữu đối với những quyền được chuyển giao; có quyền sử dụng quyền tác giả trong thời hạn và phạm vi các bên đã thỏa thuận trong Hợp đồng; bên nhận chuyển giao chỉ có thể chuyển quyền sử dụng cho tổ chức, cá nhân khác nếu được sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả.
Thực hiện Hợp đồng này, ca sĩ và nhạc sĩ sẽ có quyền và nghĩa vụ cơ bản như sau:
– Nhạc sĩ có quyền thu tiền bản quyền tác phẩm âm nhạc của mình từ ca sĩ và có nghĩa vụ cho phép ca sĩ sử dụng tác phẩm âm nhạc đó để biểu diễn cho mục đích thương mại.
– Ca sĩ có quyền sử dụng các tác phẩm theo đúng hình thức, phạm vi và thời hạn đã thỏa thuận trong Hợp đồng; phải nêu tên nhạc sĩ khi sử dụng tác phẩm; phải đảm bảo sự toàn vẹn của tác phẩm, không được sửa đổi tác phẩm làm ảnh hưởng đến các quyền nhân thân của nhạc sĩ.
Khi hết thời hạn sử dụng các ca khúc trên, ca sĩ và nhạc sĩ có thể thỏa thuận gia hạn hoặc ký mới Hợp đồng để ca sĩ có thể tiếp tục sử dụng chúng. Nếu các bên không thực hiện việc này, thì toàn bộ quyền và nghĩa vụ của các bên trong Hợp đồng sẽ chấm dứt tại thời điểm Hợp đồng hết hạn, hệ quả cơ bản sẽ là ca sĩ sẽ không còn được quyền sử dụng ca các khúc này để biểu diễn.
Hoặc là, Đơn vị tổ chức (đầu tư tài chính và vật chất) chương trình biểu diễn có nghĩa vụ xin phép, trả tiền bản quyền cho nhạc sĩ để ca sĩ đủ điều kiện biểu diễn ca khúc đấy trong một chương trình cụ thể.
Sau khi chấm dứt hiệu lực Hợp đồng, (giả định rằng) nếu bên ca sĩ vẫn tự ý tiếp tục sử dụng bài hát của nhạc sĩ để biểu diễn thương mại khi chưa ký kết một Hợp đồng tương tự khác, chưa có sự cho phép của nhạc sĩ và chưa trả tiền bản quyền cho nhạc sĩ thì trong trường hợp này ca sĩ có thể bị xác định là “có hành vi xâm phạm quyền tác giả” theo Điều 28 Luật SHTT.
Trên đây là một số chia sẻ của D&P Legal dưới góc độ pháp lý đối với vấn đề trên.
Hy vọng bài viết của Chúng tôi hữu ích với bạn./.